Skip to content

Latest commit

 

History

History
571 lines (438 loc) · 25.7 KB

Day023-rxjs-combination.md

File metadata and controls

571 lines (438 loc) · 25.7 KB

Day 23: RxJS Combination Operators

Tiếp tục cuộc hành trình tìm hiểu về các operators của RxJS nhé. Lần này, chúng ta sẽ tìm hiểu về 1 loại operators rất quan trọng khi làm việc với Angular vì những operators này sẽ cho phép các bạn kết hợp nhiều Observable lại với nhau. Những operators này gọi là Combination Operators.

const observer = {
  next: (val) => console.log(val),
  error: (err) => console.log(err),
  complete: () => console.log('complete'),
};

forkJoin()

forkJoin(...sources: any[]): Observable<any>

Nếu bạn nào đã dùng quen Promise qua rồi thì forkJoin() sẽ là 1 operator cực kỳ quen thuộc vì xét về công dụng thì forkJoin() tương đương với Promise.all().

forkJoin() nhận vào tham số là 1 list các Observables theo dạng Array hoặc Dictionary (Object) (children). Khi các children Observables complete hết thì forkJoin() sẽ emit giá trị của các children Observables theo dạng Array hoặc Dictionary (tuỳ vào tham số truyền vào) rồi sau đó sẽ complete.

RxJS forkJoin

forkJoin([of(1), of('hello'), of({ foo: 'bar' })]).subscribe(observer);
// output: [1, 'hello', {foo: 'bar'}]
// output: 'complete'

forkJoin({ one: of(1), hello: of('hello'), foo: of({ foo: 'bar' }) }).subscribe(
  observer
);
/**
 * output:
 * {
 *   one: 1,
 *   hello: 'hello',
 *   foo: { foo: 'bar' }
 * }
 * output: 'complete'
 */

Lưu ý:

  • forkJoin() chỉ emit khi các children Observables complete. Nếu như 1 trong số các children Observables không complete, forkJoin() sẽ không bao giờ emit.
  • forkJoin() sẽ throw error khi 1 trong các children Observables throw error, và giá trị của các children Observables đã complete khác sẽ bị nuốt mất nếu như các bạn không xử lý error hợp lý.

Use-case:

forkJoin() sử dụng rất nhiều trong ứng dụng Angular, đặc biệt là khi bạn cần request cùng lúc một loạt các Dropdown/Select.

forkJoin([
  this.apiService.getAccountDropdown(),
  this.apiService.getDepartmentDropdown(),
  this.apiService.getStoreDropdown(),
]).subscribe(observer);
// output: [accountList, departmentList, storeList]
// output: 'complete'

forkJoin() khi dùng với children Observables là 1 Array, thì forkJoin() có thể nhận vào 1 tham số thứ 2 gọi là projectFunction. projectFunction này sẽ được gọi với các tham số là giá trị của children Observables và kết quả của projectFunction sẽ là kết quả emit của forkJoin(). projectFunction chỉ được thực thi nếu như forkJoin() SẼ emit (nghĩa là tất cả children Observables đều complete)

forkJoin(
  [
    this.apiService.getAccountDropdown(),
    this.apiService.getDepartmentDropdown(),
    this.apiService.getStoreDropdown(),
  ],
  (accountList, departmentList, storeList) => {
    return {
      accounts: accountList,
      departments: departmentList,
      stores: storeList,
    };
  }
).subscribe(observer);
// output: { accounts: [...], departments: [...], stores: [...] }
// output: 'complete'

combineLatest()

combineLatest<O extends ObservableInput<any>, R>(...observables: (SchedulerLike | O | ((...values: ObservedValueOf<O>[]) => R))[]): Observable<R>

combineLatest() giống với forkJoin() là cũng sẽ nhận vào tham số là 1 Array<Observable>. Khác với forkJoin()combineLatest() không nhận vào Dictionary (Object)combineLatest() sẽ emit khi TẤT CẢ các children Observables emit ít nhất một lần, nghĩa là các children Observables không cần phải complete mà chỉ cần emit ít nhất 1 giá trị thì combineLatest() sẽ emit giá trị là Array gồm tất cả các giá trị được children Observables emit, theo thứ tự.

Thay vì truyền vào Array<Observable> cho combineLatest() như sau: combineLatest([obs1, obs2]), bạn cũng có thể truyền vào mà ko cần [] như: combineLatest(obs1, obs2). Cả 2 cách đều cho ra kết quả như nhau, tuy nhiên, RxJS khuyên dùng cách 1 hơn vì nó nhất quán với forkJoin() hơn và cũng dễ dự đoán được kết quả hơn, vì kết quả của combineLatest() là 1 Array. Vì vậy, mình chỉ đề cập đến cách dùng combineLatest([obs1, obs2])

RxJS combineLatest

combineLatest([
  interval(2000).pipe(map((x) => `First: ${x}`)), // {1}
  interval(1000).pipe(map((x) => `Second: ${x}`)), // {2}
  interval(3000).pipe(map((x) => `Third: ${x}`)), // {3}
]).subscribe(observer);

// output:
// sau 3s, vì interval(3000) có khoảng thời gian dài nhất:
// [First 0, Second 2, Third 0] -- vì sao? vì tại 3s, thì {2} đã emit đc 3 lần rồi (3s, mỗi giây nhảy từ 0 -> 1 -> 2)

// sau 1s kế tiếp: (giây thứ 4)
// [First 1, Second 2, Third 0] -- vì sao? vì lúc này là giây thứ 4, {1} đã emit đc 2 lần (4s, mỗi 2 giây nhảy từ  0 -> 1)
// [First 1, Second 3, Third 0] -- vì sao? vì lúc này là giây thứ 4, {2} đã emit đc lần thứ 4 (0 -> 1 -> 2 -> 3)

// sau 1s kế tiếp: (giây thứ 5)
// [First 1, Second 4, Third 0] -- {2} emit lần thứ 5

// sau 1s kế tiếp: (giây thứ 6)
// [First 2, Second 4, Third 0] -- {1} emit lần thứ 3
// [First 2, Second 5, Third 0] -- {2} emit lần thứ 6
// [First 2, Second 5, Third 1] -- {3} emit lần thứ 2

Lưu ý:

  • Qua ví dụ, các bạn cũng có thể thấy là combineLatest(), sau lần emit đầu tiên của các children Observables, thì sẽ emit giá trị mới nhất của child Observable đang emit + giá trị gần nhất của các children Observables đã emit.
  • Cũng qua ví dụ, các bạn có thể thấy là Observable thứ 2 {2} (interval(1000)) bị nuốt mất 2 giá trị đầu tiên là 01{2} đã emit với tần suất nhanh hơn là Observable có khoảng thời gian lâu nhất {3}. Đây là điều các bạn cần lưu ý để có thể tránh hiện tượng racing condition.
  • combineLatest() sẽ complete khi tất cả children Observables complete.
  • combineLatest() sẽ không bao giờ complete nếu như 1 trong số các children Observables không bao giờ complete.
  • combineLatest() sẽ throw error nếu như 1 trong số các children Observables throw error và giá trị của các children Observables đã emit khác sẽ bị nuốt (behavior này giống với forkJoin())

Use-case

Dùng rất nhiều trong việc combine state khi dùng Service trong Angular. Vì tính chất long-lived không complete sau 1 lần emit, combineLatest() là sự lựa chọn tốt cho việc combine các state trong Service và kết hợp với AsyncPipe để dùng trong template.

this.vm$ = combineLatest([
  this.paginationService.currentPage$,
  this.paginationService.currentSize$,
  this.paginationService.totalCount$,
  this.paginationService.currentOffset$,
]).pipe(
  map((currentPage, currentSize, totalCount, currentOffset) => {
    return {
      currentPage,
      currentSize,
      totalCount,
      currentOffset,
    };
  })
);

onSizeChanged(newSize: number) {
  this.paginationService.updateSize(newSize);
}

onPageChanged(newPage: number) {
  this.paginationService.updatePage(newPage);
}
<ng-container *ngIf="vm$ | async as vm">
  <app-show-total
    [offset]="vm.currentOffset"
    [total]="vm.totalCount"
    [size]="vm.currentSize"
  ></app-show-total>
  <!-- Display: 1 - 20 of 100 -->
  <app-paginator
    [current]="vm.currentPage"
    [total]="vm.totalCount"
    [size]="vm.currentSize"
    (sizeChanged)="onSizeChanged($event)"
    (pageChanged)="onPageChanged($event)"
  ></app-paginator>
</ng-container>

Như trên là 1 ví dụ khá hoàn chỉnh về việc xử lý PaginationComponent trong Angular sử dụng combineLatest()AsyncPipe. Khi updateSize()updatePage() được thực thi thì currentPage$currentSize$ sẽ emit giá trị mới, dẫn đến combineLatest() (vm$) sẽ emit giá trị mới và template sẽ được update (vm$ | async).

Cũng giống như forkJoin(), khi dùng tham số là 1 Array<Observable> thì combineLatest() có thẻ nhận vào thêm 1 tham số là projectFunction. projectFunction này sẽ được gọi với các tham số là giá trị của children Observables và kết quả của projectFunction sẽ là kết quả emit của combineLatest(). Đây cũng là lí do mình chỉ đề cập đến cách dùng combineLatest([obs1, obs2]) vì tính nhất quán với forkJoin(), và khả năng dùng projectFunction. Sau đây là ví dụ về vm$ ở trên viết lại với projectFunction

this.vm$ = combineLatest(
  [
    this.paginationService.currentPage$,
    this.paginationService.currentSize$,
    this.paginationService.totalCount$,
    this.paginationService.currentOffset$,
  ],
  (currentPage, currentSize, totalCount, currentOffset) => {
    return {
      currentPage,
      currentSize,
      totalCount,
      currentOffset,
    };
  }
);

zip()

zip<O extends ObservableInput<any>, R>(...observables: (O | ((...values: ObservedValueOf<O>[]) => R))[]): Observable<ObservedValueOf<O>[] | R>

zip() nhận vào tham số là ...(Observables | Function) để tượng trưng cho các child Observable được truyền vào lần lượt. zip() là 1 operator khá hay ho vì zip() sẽ gom tất cả các giá trị được emit bởi children Observable theo cặp.

Nghĩa là sao? Ví dụ: obs1 emit 1 - 2 - 3, obs2 emit 4 - 5 - 6, obs3 emit 7 - 8 - 9. Nếu như bạn dùng combineLatest() thì giá trị mà các bạn nhận được là:

combineLatest(of(1, 2, 3), of(4, 5, 6), of(7, 8, 9)).subscribe(observer);
// [1, 4, 7], // cả 3 emit
// [2, 4, 7], // obs1 emit 2, combineLatest emit giá trị 2 của obs1 và 2 giá trị cũ của obs2 và obs3
// ...        // sau 1 loạt emit
// [3, 6, 9]

Nhưng khi dùng zip với ví dụ trên:

zip(of(1, 2, 3), of(4, 5, 6), of(7, 8, 9)).subscribe(observer);
// [1, 4, 7]; // 3 số đầu tiên ở từng observable
// [2, 5, 8]; // 3 số tiếp theo
// [3, 6, 9]; // 3 số cuối cùng
  • zip() sẽ complete khi 1 trong các children Observables complete. Nghĩa là các bạn chỉ luôn luôn nhận được giá trị đã được gộp lại của zip
zip(of(1, 2, 3, 99), of(4, 5, 6), of(7, 8, 9)).subscribe(observer);
// [1, 4, 7]; // 3 số đầu tiên ở từng observable
// [2, 5, 8]; // 3 số tiếp theo
// [3, 6, 9]; // 3 số cuối cùng
// 99 của observable đầu tiên sẽ bị bỏ qua vì observable thứ 2 và thứ 3 đã complete mất rồi.
  • zip() sẽ throw error nếu 1 trong các children Observables throw error.
  • Nếu tham số cuối cùng của zip() là 1 Function thì zip() sẽ coi tham số này là projectFunction. Cách thức hoạt động hoàn toàn giống với projectFunction của combineLatest()forkJoin().

Use-case

zip() cực kỳ hữu hiệu nếu như các bạn rơi vào các trường hợp sau:

  • Giá trị cuối cùng mà bạn cần được cung cấp bởi nhiều Observables khác nhau. Ví dụ:
const age$ = of<number>(29, 28, 30);
const name$ = of<string>('Chau', 'Trung', 'Tiep');
const isAdmin$ = of<boolean>(true, false, true);

zip(age$, name$, isAdmin$).pipe(
  map(([age, name, isAdmin]) => ({ age, name, isAdmin }))
);
// output:
// { age: 29, name: 'Chau', isAdmin: true }
// { age: 28, name: 'Trung', isAdmin: false }
// { age: 30, name: 'Tiep', isAdmin: true }

// dùng với projectFunction
zip(age$, name$, isAdmin$, (age, name, isAdmin) => ({
  age,
  name,
  isAdmin,
})).subscribe(observer);
// output:
// { age: 29, name: 'Chau', isAdmin: true }
// { age: 28, name: 'Trung', isAdmin: false }
// { age: 30, name: 'Tiep', isAdmin: true }
  • Kết hợp giá trị của 2 Observables khác nhau ở 2 thời điểm khác nhau. Ví dụ: các bạn muốn biết toạ độ chuột của người dùng từ lúc họ mousedown cho đến lúc họ mouseup, hoặc có thể lấy khoảng thời gian họ rê chuột (dùng new Date() thay vì getCoords() như ví dụ bên dưới)
const log = (event, val) => `${event}: ${JSON.stringify(val)}`;
const getCoords = pipe(
  map((e: MouseEvent) => ({ x: e.clientX, y: e.clientY }))
);
const documentEvent = (eventName) =>
  fromEvent(document, eventName).pipe(getCoords);

zip(documentEvent('mousedown'), documentEvent('mouseup')).subscribe((e) =>
  console.log(`${log('start', e[0])} ${log('end', e[1])}`)
);
// output:
// start: {"x":291,"y":136} end: {"x":143,"y":168}
// start: {"x":33,"y":284} end: {"x":503,"y":74}

concat()

concat<O extends ObservableInput<any>, R>(...observables: (SchedulerLike | O)[]): Observable<ObservedValueOf<O> | R>

concat() nhận vào tham số ...Observable để tượng trưng cho các child Observable được truyền vào lần lượt thay vì truyền vào 1 Array<Observable>

concat() sẽ subscribe vào các children Observables theo thứ tự được truyền vào và sẽ emit khi Observable đang được subscribe complete (gọi là {1}).

  • Nếu {1} emit và complete, concat() sẽ emit giá trị mà {1} emit rồi sẽ subscribe vào Observable kế tiếp.
  • Nếu {1} error, concat() sẽ error ngay lặp tức và chuỗi Observable phía sau sẽ bị bỏ qua.
  • Nếu {1} complete mà không emit, concat() sẽ bỏ qua và subscribe vào Observable kế tiếp
  • Nết {1} emit và không complete, concat() sẽ emit giá trị mà {1} emit NHƯNG sẽ không subscribe vào Observable kế tiếp vì {1} không complete.

concat() sẽ hoạt động tương tự cho LẦN LƯỢT từng children Observables cho đến khi không còn Observable nào thì concat() sẽ complete.

RxJS concat

concat(of(4, 5, 6).pipe(delay(1000)), of(1, 2, 3)).subscribe(observer);
// output:
// sau 1s:
// 4-5-6-1-2-3
// output: 'complete'

Các bạn có thể thấy là concat() sẽ chờ cho of(4, 5, 6).pipe(delay(1000)) emit và complete thì concat() mới emit 4-5-6 rồi subscribe vào of(1, 2, 3).

Các bạn cũng có thể truyền 1 Observable nhiều lần vào cho concat().

const fiveSecondTimer = interval(1000).pipe(take(5));

concat(fiveSecondTimer, fiveSecondTimer, fiveSecondTimer).subscribe(observer);
// output: 0,1,2,3,4 - 0,1,2,3,4 - 0,1,2,3,4
// output: 'complete'

// dùng repeat()
concat(fiveSecondTimer.pipe(repeat(3))).subscribe(observer);
// output: 0,1,2,3,4 - 0,1,2,3,4 - 0,1,2,3,4
// output: 'complete'

merge()

merge<T, R>(...observables: any[]): Observable<R>

merge() nhận vào tham số ...(Observable | number) để tượng trưng cho các child Observable được truyền vào lần lượt thay vì truyền vào 1 Array<Observable>. Khác với concat(), merge() không quan tâm đến thứ tự mà các children Observables emit cho nên merge() không bị giới hạn bởi việc các Observable con phải complete thì Observable kế tiếp mới được subscribe. Tham số cuối cùng của merge() nếu là 1 number, thì merge() sẽ coi tham số đó là số concurrent. concurrent xác định số lượng children Observablesmerge() sẽ subscribe song song (concurrently). Default thì merge() sẽ subscribe vào TẤT CẢ children Observables song song.

merge() sẽ subscribe vào tất cả (phụ thuộc vào tham số concurrent nếu được truyền vào) các children Observables và sẽ:

  • emit giá trị mà bất cứ Observable nào emit.
  • throw error nếu 1 trong children Observables throw error
  • complete khi và chỉ khi tất cả children Observables complete.

RxJS merge

merge(of(4, 5, 6).pipe(delay(1000)), of(1, 2, 3)).subscribe(observer);
// output:
// 1,2,3
// sau 1s: 4,5,6
// output: 'complete'

Các bạn thấy sự khác biệt với concat() chưa? Ở đây, merge() emit luôn 1,2,3 rồi mới tới 4,5,6 và không hề quan tâm đến thứ tự mà các children Observables này được truyền vào. Mình thêm 1 ví dụ khác để các bạn thấy rõ hơn cách hoạt động của merge()

merge(
  interval(2000).pipe(mapTo('emit every 2 seconds'), take(3)),
  interval(1000).pipe(mapTo('emit every 1 second'), take(3))
).subscribe(observer);

// output:
// (sau 1s):
// emit every 1 second
// (sau 2s):
// emit every 2 seconds
// emit every 1 second
// (sau 3s):
// emit every 1 second - cái này complete, vì đã emit 3 lần rồi (take(3))
// (sau 4s):
// emit every 2 seconds
// (sau 6s):
// emit every 2 seconds - cái này complete (take(3))
// output: 'complete'

Ví dụ trên sẽ cho các bạn thấy merge() sẽ emit khi mà child Observable emit thôi và có thể emit xen kẽ nhau. Sau đây sẽ là ví dụ truyền vào tham số concurrent

merge(
  interval(1000).pipe(mapTo('first'), take(5)), // will take 5 seconds to complete
  interval(2000).pipe(mapTo('second'), take(3)), // will take 6 seconds to complete
  interval(3000).pipe(mapTo('third'), take(2)), // will take 6 seconds to complete
  2
).subscribe(observer);

// output:
// (sau 1s):
// first
// (sau 2s):
// first
// second
// (sau 3s):
// first
// (sau 4s):
// first
// second
// (sau 5s):
// first (first complete (take(5)), third sẽ bắt đầu được subscribe)
// (sau 6s):
// second (second complete (take(3)))
// (sau 8s):
// third (vì third bắt đầu đc subscribe ở giây thứ 5)
// (sau 11s):
// third (third complete vì take(2))

Các bạn sẽ thấy khi truyền vào tham số concurrent là 2, merge sẽ chỉ subscribe vào firstsecond song song mà thôi. Cho đến khi first complete, thì third mới bắt đầu đc subscribe. Điều này cũng sẽ cho các bạn thấy được rằng thật ra concat() chính là merge() với concurrent là 1.

Use-case:

Trong Angular, merge() có thể được sử dụng khi các bạn có 1 FormGroup và các bạn muốn lắng nghe vào từng FormControl.valueChanges để thực hiện 1 nghiệp vụ nào đó. Lúc này, các bạn không hề quan tâm thứ tự việc FormControl nào sẽ thay đổi, các bạn chỉ cần quan tâm là nếu FormControl đó thay đổi thì sẽ xử lý hợp lý.

const formControlValueChanges = Object.keys(this.formGroup.value).map((key) =>
  this.formGroup.get(key).valueChanges.pipe(map((value) => ({ key, value })))
); // ví dụ từ {firstName: 'Chau', lastName: 'Tran'} -> [Observable<{key, value}>, Observable<{key, value}>]
merge(...formControlValueChanges).subscribe(({key, value}) => {
  if (key === 'firstName') {...};
  if (key === 'lastName') {...};
});

race()

race<T>(...observables: any[]): Observable<T>

race() là một operator khá hay ho và khá hữu ích trong 1 số trường hợp nhất định. race() có tham số giống như merge()concat() nên mình sẽ không lặp lại nữa.

  • race() sẽ emit giá trị của Observable nào emit đầu tiên (nhanh nhất) sau đó lặp lại cho đến khi 1 trong các children Observables complete.
  • race() sẽ error ngay lập tức nếu Observable nhanh nhất lại throw error thay vì emit giá trị.
race(
  interval(1000).pipe(mapTo('fast')),
  interval(2000).pipe(mapTo('medium')),
  interval(3000).pipe(mapTo('slow'))
).subscribe(observer);
// output: fast - 1s -> fast - 1s -> fast - 1s -> fast...

Use-case:

Ở một ứng dụng bất kỳ, các bạn lâu lâu sẽ phải hiển thị 1 Banner nào đó dựa vào hành động của người dùng. Ví dụ: Người dùng vừa submit 1 form, bạn hiển thị 1 Banner (ng-ant-zorro Alert) báo người dùng là họ submit thành công, hoặc họ có gặp lỗi. Nghiệp vụ lúc này muốn Banner này sẽ tắt đi khi 1 trong 3 điều kiện sau được thoả:

  • Sau khi hiển thị được 10s
  • Người dùng click đóng Banner
  • Người dùng navigate sang một page khác.

Lúc này, operator thích hợp nhất chính là race() vì các bạn chỉ muốn đóng Banner khi 1 trong 3 điều kiện trên được thoả mà thôi.

race(
  timer(10000), // timer 10 second
  this.userClick$, // user click event
  this.componentDestroy$ // navigate -> ngOnDestroy
)
  .pipe(takeUntil(this.componentDestroy$)) // chúng ta cũng sẽ ko muốn lắng nghe vào race nữa nếu như componentDestroy$
  .subscribe(() => this.closeBanner());

Tất cả các operators trên đây đều là static function. Các operators sau sẽ là các pipeable operator, nghĩa là các operator sau đây đều được dùng với pipe() và sẽ được bao bên ngoài 1 Observable gọi là Outer Observable.

withLatestFrom()

withLatestFrom<T, R>(...args: any[]): OperatorFunction<T, R>

withLatestFrom() nhận vào tham số là 1 Observable. withLatestFrom() sẽ gộp giá trị emit của Outer Observable với giá trị gần nhất của tham số Observable thành 1 Array rồi emit Array này.

RxJS withLatestFrom

fromEvent(document, 'click')
  .pipe(withLatestFrom(interval(1000)))
  .subscribe(observer);
// output:
// - click trước 1s --- chờ đến 1s --> [MouseEvent, 0]
// - click sau 1s -> [MouseEvent, 0];
// - click lúc 5.5s -> [MouseEvent, 4]; // sau 5s thì giá trị gần nhất của interval(1000) là 4 (0 - 1 - 2 - 3 -4)

withLatestFrom() cũng nhận vào tham số thứ 2 optional là projectFunction. Cách thức hoạt động như những projectFunction được đề cập trong bài viết này.

Use-case

Vì tính chất chỉ emit khi Outer Observable emit nên withLatestFrom() sẽ phù hợp với những nghiệp vụ mà các bạn cần lắng nghe 1 Observable (đây là Outer Observable) và cần thêm giá trị gần nhất của 1 Observable khác. Nếu dùng combineLatest() thì mỗi lần Observable khác kia emit, thì combineLatest() cũng emit và đây là điều chúng ta không muốn.

this.apiService.getSomething().pipe(withLatestFrom(this.currentLoggedInUser$));
// các bạn gọi một API và các bạn muốn dùng kết quả của API này + với thông tin của người dùng đang đăng nhập để thực hiện nghiệp vụ ké tiếp

startWith()

startWith<T, D>(...array: (SchedulerLike | T)[]): OperatorFunction<T, T | D>

startWith() là 1 operator rất dễ hiểu. startWith() nhận vào 1 list các tham số. startWith() sẽ làm cho cả Observable emit giá trị của startWith() trước rồi mới emit đến giá trị của Outer Observable. startWith() sẽ emit giá trị ngay lặp tức mà không phụ thuộc vào việc Outer Observable có emit hay là chưa.

RxJS startWith

of('world').pipe(starWith('Hello')).subscribe(observer);
// output:
// 'Hello'
// 'word'
// 'complete'

Use-case

startWith() có thể được dùng trong Angular để cung cấp giá trị ban đầu cho các API call. Ví dụ:

this.books$ = this.apiService.getBooks().pipe(startWith([]));
<ng-container *ngIf="books$ | async as books">
  <!-- vì books$ đã có startWith([]) nên giá trị của books sẽ là truthy ngay từ đầu, nên *ngIf này sẽ truthy và render bên trong ng-container ngay -->
</ng-container>

endWith()

endWith<T>(...array: (SchedulerLike | T)[]): MonoTypeOperatorFunction<T>

endWith() cũng nhận vào 1 list các tham số như startWith() nhưng cách hoạt động thì ngược lại với startWith(). Một điểm khác biệt lớn là endWith() chỉ emit giá trị của endWith() khi Outer Observable complete mà thôi.

RxJS endWith

of('hi', 'how are you?', 'sorry, I have to go now')
  .pipe(endWith('goodbye!'))
  .subscribe(observer);
// output:
// 'hi'
// 'how are you?'
// 'sorry, I have to go now'
// 'goodbye!'

pairwise()

pairwise<T>(): OperatorFunction<T, [T, T]>

pairwise() là 1 operator rất thú vị và rất kén nghiệp vụ. pairwise() sẽ gộp giá trị emit gần nhất và giá trị đang được emit của Outer Observable thành 1 Array (1 cặp giá trị) và emit Array này.

RxJS pairwise

from([1, 2, 3, 4, 5])
  .pipe(
    pairwise(),
    map((prev, cur) => prev + cur)
  )
  .subscribe(observer);
// output:
// 3 (1 + 2)
// 5 (2 + 3)
// 7 (3 + 4)
// 9 (4 + 5)

Summary

Lại 1 ngày quá nhiều kiến thức 💪. Một lần nữa, các operators và use-case mình liệt kê ở đây là những gì mình có thể nghĩ tới được, hoặc đã từng áp dụng. Các bạn có nghiệp vụ nào dùng qua những operators này thì post lên chia sẻ nhé. Hẹn gặp lại các bạn trong ngày mai.

Mục tiêu ngày 24 sẽ là RxJS Error handling/conditional Operators

References

Author

Chau Tran

#100DaysOfCodeAngular #100DaysOfCode #AngularVietNam100DoC_Day23